CHỌN GIỚI TÍNH CHO THAI NHI THEO KHOA HỌC

Bất kể ở thời đại nào thì giới tính của con luôn là mối quan tâm hàng đầu của nhiều cặp vợ chồng. Tuỳ theo nhu cầu của mỗi gia đình khác nhau mà mong muốn một cô con gái dễ thương hay một nhóc con tinh nghịch. Để đáp ứng nhu cầu trên, các nhà khoa học đã nghiên cứu hàng loạt các phương pháp sinh con theo ý muốn phong phú và đa dạng. Cùng tìm hiểu về các phương pháp chọn giới tính cho thai nhi theo khoa học trong bài viết sau.

Chọn giới tính cho thai nhi theo khoa học
Chọn giới tính cho thai nhi theo khoa học

CHỌN GIỚI TÍNH CHO THAI NHI THEO KHOA HỌC

Chọn giới tính cho thai nhi theo khoa học bằng phương pháp Ericsson

Phương pháp Ericsson được đặt theo tên cha đẻ là Tiến sĩ Ronald J. Ericsson, phát minh ra những năm 1970. Dựa vào đặc điểm khác nhau của tinh trùng mang nhiễm sắc thể giới tính, phương pháp này có xác suất thành công từ 70 – 72% đối với việc sinh con trai và 69 – 75% thành công đối với việc sinh con gái.

Phương pháp Ericsson được thực hiện trên nguyên tắc tách các tinh trùng chứa nhiễm sắc thể X và nhiễm sắc thể Y bằng cách thay đổi môi trường, đưa chúng qua một cột chứa đầy protein. Trong trường hợp này, những chú tinh binh giúp sinh con trai nổi trên bề mặt trong khi loại tinh binh giúp sinh con gái chìm xuống dưới.

Tuy nhiên, sự khác biệt về trọng lượng không đáng kể khiến độ chính xác của Phương pháp Ericsson chỉ đạt tối đa 75%. Dù vậy, hàng chục phòng khám ở Mỹ đang sử dụng phương pháp này để giúp các cặp cha mẹ sinh con theo ý muốn.

Chọn giới tính cho thai nhi theo khoa học bằng phương pháp thụ tinh IVF kết hợp với kỹ thuật chẩn đoán tiền chuyển phôi Micro-Array CGH

Sau khi tiêm thuốc kích trứng vào buồng trứng của người phụ nữ, một loạt trứng sẽ được lấy ra khỏi cơ thể. Những quả trứng này sẽ được mang vào phòng thí nghiệm, trước khi sử dụng tinh trùng của người cha để thụ tinh. Phương pháp này mang tên thụ tinh trong ống nghiệm (IVF), thường được sử dụng cho những cặp hiếm muộn.

Để khắc phục các rủi ro thai nhi mắc các bệnh dị tật di truyền và giới tính thai nhi, các nhà khoa học đã phát triển thêm kỹ thuật chẩn đoán tiền di truyền Micro-Array CGH. Kỹ thuật này được thực hiện bằng cách áp dụng kỹ thuật IVF để hình thành phôi thai. Vào ngày thứ ba sau khi thụ tinh, một trong những tế bào được lấy để phân tích nhiễm sắc thể bằng kỹ thuật Micro-Array CGH. Sau đó phôi có giới tính mong muốn và khoẻ mạnh sẽ được cấy ngược lại vào buồng tử cung của người mẹ và phát triển thành một đứa trẻ bình thường.

Kỹ thuật Micro-Array CGH được cho là kỹ thuật có những ưu điểm vượt trội hơn các kỹ thuật phân tích khác ở điểm, nó có thể phát hiện và loại trừ tất cả các bất thường ở 23 cặp nhiễm sắc thể chứ không chỉ dừng lại ở 5 cặp sắc thể 13, 18, 21, 22 và 23. Việc kiểm tra tất cả các nhiễm sắc thể giúp loại trừ 2000 dị tật di truyền và sàng lọc phôi chứa NST giới tính mong muốn cho con, bảo đảm em bé sinh ra khỏe mạnh, như ý.

 

Trên thực tế, việc xác định giới tính thai nhi sau khi trứng đã thụ tinh được ưa chuộng hơn nhiều so với phương pháp Ericsson bởi tỉ lệ thành công của phương pháp này trong việc sàng lọc các phôi lỗi, phôi bị dị tật bẩm sinh, chọn phôi có giới tính mong muốn cao hơn phương pháp Ericsson.

Tuy nhiên, trở ngại lớn nhất đối với phương pháp này là khó khăn trong việc thực thi. Thụ tinh trong ống nghiệm (IVF) kết hợp Micro-Array CGH là một phương pháp gồm nhiều bước phức tạp, đòi hỏi bác sĩ thực hiện phải là người không chỉ có chuyên môn cao mà còn phải có nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực nuôi cấy phôi và phân tích di truyền. Ngoài ra, nơi thực hiện phương pháp này, đòi hỏi phải có phòng nuôi cấy phôi đạt tiêu chuẩn nghiêm ngặt. Trong đó bao gồm nhiều tiêu chí như vô trùng, nhiệt độ, độ ẩm phù hợp, chất lượng không khí ở mức tối ưu. Bởi phôi khi nuôi cấy ở môi trường bên ngoài tử cung người mẹ rất dễ bị nhiễm khuẩn, nấm mốc, virus, ảnh hưởng đến sự phát triển của phôi, thậm chí là hư phôi. Có thể nói, tiêu chuẩn phòng sạch đóng vai trò quan trọng vào sự thành bại của phương pháp này.

Hiện nay, trên thế giới có rất ít cơ sở y tế thực hiện được phương pháp này. Trong khu vực Châu Á, tỉ lệ thực hiện thành công các ca thụ tinh trong ống nghiệm thuộc về bệnh viện Quốc Tế Piyavate với xác suất cao hơn từ 5 –  10% so với mặt bằng chung.

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Chat Zalo
Chat Facebook
0906 040 460